Thứ Hai | 17 | 04 | 2017 | (GMT+7)

Giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm phát triển bền vững các KCN, KKT

(www.khucongnghiep.com.vn). Sự phát triển của các KCN, KKT, KCX tại Việt Nam trong thời gian qua đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

 

Hệ thống văn bản pháp quy nền tảng quy định thống nhất các nghiệp vụ liên quan tới cơ chế, chính sách, quy hoạch, phát triển và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với tất cả các KCN, KKT, KCX trên địa bàn cả nước là Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về KCN, KCX và KKT (gọi tắt là Nghị định 29/2008/NĐ-CP) và 02 Nghị định sửa đổi của Nghị định này là Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 và Nghị định số 114/2015/NĐ-CP ngày 09/11/2015.

 

Bên cạnh đó, những vấn đề và lĩnh vực cụ thể trong quá trình thành lập, phát triển và quản lý KCN, KKT, KCX được quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như Luật Đầu tư 2014; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) 2013; Nghị định quy định tiền thuê mặt đất, mặt nước… Điều 5, Luật Đầu tư 2014 quy định các các nhà đầu tư được quyền đầu tư kinh doanh trong KCN, KKT với những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Nhà đầu tư cũng được tự chủ trong việc ra quyết định hoạt động đầu tư kinh doanh của mình trong khuôn khổ pháp luật không cấm và được Nhà nước bảo hộ, công nhận về quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư, cũng như bình đẳng với các nhà đầu tư khác trong khả năng được tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ, sử dụng đất đai và tài nguyên khác nhằm phục vụ cho hoạt động đầu tư của mình. Rõ ràng, với sự thay đổi này, Luật Đầu tư 2014 đã tạo nền tảng pháp lý tương đối thông thoáng, cởi mở và linh hoạt để thu hút và hấp dẫn các dự án đầu tư phát triển KCN, KKT tại Việt Nam.

Một số hạn chế của hệ thống cơ chế chính sách về KCN, KCX, KKT

Bên cạnh những đóng góp tích cực trong việc đưa các KCN, KKT đi vào hoạt động ổn định, nề nếp, có hiệu quả hơn và ngày càng khẳng định được vai trò, đóng góp của KCN, KKT, KCX vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, thì hệ thống cơ chế, chính sách quy định về KCN, KKT, KCX vẫn còn một số mặt hạn chế cần khắc phục và tập trung giải quyết trong thời gian tới. Cụ thể:

Việc hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về KCN, KKT chưa được triển khai đầy đủ và toàn diện

Nghị định số 164/2013/NĐ-CP đã được ban hành cuối năm 2013, quy định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc hướng dẫn thực hiện phân cấp, ủy quyền cho Ban Quản lý các KCN, KKT và hướng dẫn một số nội dung về quy hoạch nhà ở cho công nhân trong KCN. Tuy nhiên, đến nay, mới có Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Công Thương đã có văn bản hướng dẫn, còn các bộ, ngành khác chưa triển khai hướng dẫn theo quy định của Nghị định số 164/2013/NĐ-CP.

Việc phân cấp, ủy quyền cho Ban Quản lý KCN, KKT còn bất cập, chưa thực sự nhất quán với pháp luật về KKT, đặc biệt là về cơ chế phân cấp, ủy quyền cho Ban Quản lý thực hiện chức năng “một cửa”, chưa tạo sự thuận lợi tối đa cho Ban Quản lý KCN, KKT thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước

Liên quan đến công tác ủy quyền đối với KCN, KKT, KCX, với hệ thống văn bản pháp luật như hiện nay, bất cứ cơ quan quản lý nhà nước nào (kể cả cơ quan chuyên môn) từ Trung ương đến địa phương đều có thể ủy quyền cho Ban Quản lý KCN, KKT, KCX. Đặc biệt, không cần phân cấp (cấp trên, ngang cấp hay cấp dưới) đều có thể ủy quyền và cùng một nhiệm vụ lại có nhiều cấp ủy quyền (như việc ủy quyền về lao động theo Thông tư số 32/2014/TT-BLĐTBXH ngày 01/12/2014 hướng dẫn ủy quyền thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động trong KCN, KCX, KKT). Điều này tạo sự chồng chéo trong thực hiện công tác quản lý nhà nước giữa các cơ quan quản lý với nhau (UBND quận, huyện ủy quyền cho Ban Quản lý).

Theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, Nghị định số 164/2013/NĐ-CP và Thông tư Liên tịch số 06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 03/9/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý KCN, KCX, KKT, KKT cửa khẩu, Ban Quản lý các KCN, KKT, KCX là đơn vị chủ trì “tổ chức kiểm tra, xử lý theo thẩm quyền”, song trong Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra thì Ban Quản lý KCN, KKT, KCX không có bộ phận thanh tra, do đó ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của Ban Quản lý, xảy ra tình trạng Ban Quản lý phát hiện vi phạm của các doanh nghiệp trong KCN, KKT nhưng không thể xử phạt được. Trong khi đó, gần như cơ quan hữu quan nào cũng được quyền tổ chức kiểm tra, thanh tra các KCN, KKT, KCX (thanh tra địa phương, thanh tra các bộ, thanh tra chuyên ngành…) mà không cần sự đồng thuận hay phối hợp của Ban Quản lý KCN, KKT, KCX.

Một số Ban Quản lý KCN, KKT gặp khó khăn trong việc đề nghị ủy quyền thực hiện nhiệm vụ, như chưa được phân cấp, ủy quyền trong thẩm định, phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường, xác nhận đăng ký Kế hoạch bảo vệ môi trường, cấp giấy phép lao động cho người lao động ở nước ngoài tại các KCN, KKT. Do đó, doanh nghiệp chưa thực sự được tạo điều kiện thuận lợi trong thực hiện các thủ tục hành chính, công tác quản lý, giám sát việc chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường của doanh nghiệp gặp khó khăn.

Tính ổn định, thống nhất trong các chính sách hiện hành còn một số điểm vướng mắc, chưa thuận lợi cho thu hút đầu tư, phát triển các KCN, KKT và khiến các nhà đầu tư khó khăn trong việc thích ứng với chính sách mới

Về ưu đãi thuế TNDN: theo quy định tại Nghị định số 218/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Thuế TNDN, dự án đầu tư vào KCN không được áp dụng thuế suất ưu đãi; dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN không được áp dụng thuế suất ưu đãi và thời gian miễn, giảm như quy định trước đây.

Về ưu đãi đầu tư: Ngành nghề ưu đãi đầu tư đã được quy định tại Luật Đầu tư năm 2014, tuy nhiên còn ở mức độ tổng thể, chưa chi tiết, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi làm việc với cơ quan thuế trong việc đề nghị được hưởng ưu đãi. Do đó cần có hướng dẫn, quy định ngành nghề ưu đãi đầu tư theo Hệ thống mã ngành kinh tế Việt Nam, đảm bảo thống nhất trong việc đăng ký đầu tư cũng như đăng ký doanh nghiệp.

Ưu đãi về đất:

+ Về cho thuê lại đất và đơn giá cho thuê đất đối với doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN: Luật Đất đai (năm 2013) không cho phép doanh nghiệp hạ tầng tận dụng được nguồn vốn dài hạn thông qua việc thuê đất của Nhà nước trả tiền thuê đất hàng năm và cho thuê lại đất thu tiền thuê đất một lần đối với nhà đầu tư thứ cấp như trước đây. Việc chuyển từ hình thức thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm sang hình thức thuê đất trả tiền thuê đất một lần đối với doanh nghiệp hạ tầng còn gặp một số vướng mắc, khó khăn và chưa được hướng dẫn cụ thể.

+ Theo quy định tại Luật Đất đai năm 2013, đối với trường hợp dự án đầu tư hạ tầng KCN tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, các KKT, bên cạnh việc được miễn tiền thuê đất, sẽ được hưởng quyền, nghĩa vụ như đối với trường hợp thuê đất hàng năm. Trong khi đó, nhà đầu tư đã ứng trước tiền đền bù giải phóng mặt bằng, tiền đền bù giải phóng mặt bằng được tính vào tổng vốn đầu tư của dự án. Vì vậy, ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư như không thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn.

+ Theo quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước, đơn giá Nhà nước cho doanh nghiệp hạ tầng thuê đất trả tiền thuê đất một lần được định giá theo giá thị trường, qua đó, đẩy giá cho thuê lại đất lên rất cao, không hấp dẫn các nhà đầu tư thứ cấp. Việc thanh toán tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê tính giá đất phi nông nghiệp bằng với giá Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất. Như vậy, số tiền nộp tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê đối với các KCN rất lớn, nâng chi phí đầu tư lên cao và giá cho thuê lại đất tăng cao.

+ Về ưu đãi miễn tiền thuê đất đối với dự án đầu tư hạ tầng KCN, KKT: Theo quy định tại Điều 19, Nghị định số 46/2014/NĐ-CP, danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện theo quy định pháp luật về đầu tư; danh mục địa bàn được hưởng ưu đãi tiền thuê đất chỉ áp dụng đối với địa bàn có địa giới hành chính cụ thể. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật về đất đai, chỉ có đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện, xã mới có địa giới hành chính. Do đó, KCN, KKT không còn là địa bàn ưu đãi tiền thuê đất. Việc ưu đãi tiền thuê đất được căn cứ vào địa bàn cấp huyện mà KCN, KKT được thành lập.

Một số vấn đề vướng mắc trong quá trình triển khai Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp cần được tiếp tục hướng dẫn

Theo quy định tại Luật Đầu tư năm 2014, việc cấp, điều chỉnh và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án đầu tư thực hiện ở trong và ngoài KKT, KCN, KCX, khu công nghệ cao nhưng đặt hoặc dự kiến đặt trụ sở chính hoặc văn phòng điều hành trong KKT, KCN, KCX, khu công nghệ cao thuộc thẩm quyền Sở Kế hoạch và Đầu tư. Đối với các dự án này, trước đây, được Ban Quản lý KCN, KKT, KCNC cấp giấy chứng nhận đầu tư. Do đó, việc triển khai quy định này gặp khó khăn, tạo ra sự không thống nhất, thuận lợi trong quản lý nhà nước về đầu tư đối với các dự án trong KCN, KKT.

Chính sách quy hoạch và phát triển các KCN, KKT, KCX không tập trung, mỗi tỉnh, thành phố trong cả nước đều có KCN, KKT, KCX. Việc quy hoạch như vậy, mặc dù có ưu điểm là thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương và giải quyết việc làm cho những địa phương có điều kiện kém phát triển hơn, song kết quả đạt được không cao, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh trong thu hút đầu tư.

Bên cạnh đó, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực gắn với ngành nghề thu hút đầu tư trong các KCN, KKT chưa được quan tâm thích đáng, dẫn tới việc thiếu hụt nguồn nhân lực cho một số dự án lớn đang triển khai tại một số KCN, KKT. Ngoài ra, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (nhà ở cho chuyên gia, công nhân, trường học, bệnh viện...) cũng chưa được quan tâm, do vậy chưa tạo sự hấp dẫn thu hút người lao động.

Về quản lý và phát triển hạ tầng ngoài KCN, KKT, KCX, hiện vẫn chưa có sự đồng bộ về hạ tầng (điện, nước, hạ tầng giao thông…) giữa trong và ngoài KCN, KKT, KCX. Hạ tầng ngoài KCN, KKT, KCX được quy hoạch nhằm phục vụ dân sinh trên địa bàn và do nhiều cơ quan quản lý riêng, nên rất khó khăn đáp ứng nhu cầu của KCN, KKT, KCX. Trong khi đó, việc quản lý giá mà các chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN, KKT, KCX cho doanh nghiệp thuê đất vẫn còn bất cập và chưa phù hợp. Hiện tại, chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng tự đưa ra khung giá cho thuê đất, Ban Quản lý KCN, KKT, KCX chỉ tiếp nhận đăng ký giá cho thuê đất của chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng, dẫn đến tình trạng nhà đầu tư hạ tầng đưa ra giá thuê đất quá cao (đối với các chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng là tư nhân) mà Ban Quản lý KCN, KKT, KCX không có quyền can thiệp, nên ảnh hưởng đến việc kêu gọi đầu tư.

Công tác bảo vệ môi trường KCN, KKT chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra: Ý thức bảo vệ môi trường của một số doanh nghiệp phát triển hạ tầng, doanh nghiệp thứ cấp trong các KCN chưa cao nên vẫn có một số KCN, doanh nghiệp KCN chưa tuân thủ nghiêm túc pháp luật về môi trường. Bên cạnh đó, nhu cầu vốn đầu tư để xây dựng các nhà máy xử lý nước thải tập trung lớn. Trong khi, vốn NSTW hỗ trợ xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung KCN, KKT theo Quyết định 43/2009/QĐ-TTg ngày 19/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và Quyết định 126/2009/QĐ-TTg ngày 26/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách trung ương đối với đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KKT ven biển hạn chế. Công tác huy động các nguồn vốn khác cho đầu tư xử lý nước thải còn khó khăn.

Quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển KCN, KKT, KCX  tại Việt Nam trong thời gian tới

Trong thời gian tới, việc thành lập, xây dựng và phát triển các KCN, KKT, KCX trên địa bàn cả nước sẽ thống nhất theo một số chủ trương lớn như:

- Phải đảm bảo tính hợp lý của việc phân bố các KCN, KKT, KCX trên địa bàn từng địa phương trên cơ sở đảm bảo phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của địa phương và khả năng đầu tư của khu vực;

- Giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách trung ương đối với hoạt động phát triển kết cấu hạ tầng KCN, KKT, KCX, đặc biệt là ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn bằng cách đa dạng hóa và điều chỉnh cơ cấu thu hút các nguồn lực để phát triển;

- Chú trọng thu hút các dự án có công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường, kiên quyết loại trừ các ngành nghề ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường và chú trọng tính liên kết giữa các doanh nghiệp với KCN, KKT, liên kết giữa trong và ngoài KCN, KKT;

- Coi trọng việc phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút nguồn vốn xã hội hóa xây dựng cơ sở hạ tầng nhà ở, hạ tầng dịch vụ thiết yếu cho công nhân KCN, KKT.

Nhận diện một số vấn đề quan trọng cần giải quyết để hoàn thiện chính sách phát triển KCN, KKT, KCX

Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về ưu đãi đầu tư, quy hoạch, xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng KCN, KKT, KCX theo những nội dung chính sau:

- Tăng tính ổn định, lâu dài và thực tiễn trong xây dựng quy hoạch KCN, KCX. Xây dựng, triển khai quy hoạch KCN, KKT, KCX gắn với các loại quy hoạch có liên quan. Chú trọng tới việc đảm bảo đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho công nhân trong KCN, KKT, KCX;

- Đa dạng hóa các nguồn vốn, đặc biệt là hình thức đối tác công tư (PPP) để đầu tư hạ tầng KCN, KCX;

- Đảm bảo tính ổn định, thống nhất đối với các chính sách ưu đãi và hỗ trợ liên quan tới hoạt động đầu tư tại các KCN, KKT, KCX như thuế;

- Tăng cường và đảm bảo sự phân cấp từ Trung ương tới địa phương, tránh sự chồng chéo và kiện toàn bộ máy, cơ chế quản lý nhà nước của Ban Quản lý KCN, KKT, KCX theo hướng một cửa, một đầu mối, đảm bảo sự phát triển hiệu quả của KCN, KKT, KCX và sự thuận lợi cho các nhà đầu tư.

Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển KCN, KKT, KCX tại Việt Nam trong thời gian tới

Nhóm giải pháp liên quan tới phân cấp, ủy quyền đối với Ban Quản lý KCN, KKT, KCX

Các bộ, cơ quan ngang bộ tập trung hướng dẫn việc phân cấp, ủy quyền cho Ban Quản lý KCN, KKT, KCX thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong KCN, KKT, KCX theo quy định của Luật Đầu tư 2014 đồng thời nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật chuyên ngành cho phù hợp, tránh tình trạng chồng chéo giữa các văn bản pháp luật.

Tại Nghị định số 164/2013/NĐ-CP vẫn duy trì cơ chế ủy quyền từ các sở, ngành hoặc UBND cấp huyện mà không giao trực tiếp cho UBND cấp tỉnh ủy quyền cho Ban Quản lý KCN, KKT. Điều này tiếp tục gây bất cập trong thực tế vì các tỉnh, thành phố sẽ thực hiện không thống nhất; không giải quyết được vấn đề chồng chéo trong quản lý, cũng như trách nhiệm chính về KCN, KKT dẫn đến tình trạng quản lý lỏng lẻo, đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Do đó, nên có văn bản thống nhất quy định rõ, chỉ có cơ quan quản lý nhà nước cấp trên mới được ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới. Các cơ quan chuyên môn không được phép ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước.

Ngoài ra, kiến nghị Quốc hội có thể xem xét, nghiên cứu và ban hành Luật KCN, KKT để tạo khung pháp lý cao nhất, phù hợp với sự đóng góp của hệ thống KCN, KKT, KCX trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như đối với phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trong thời gian qua.

Đồng thời, cấp ban hành thống nhất “Mẫu quy chế phối hợp” giữa Ban Quản lý KCN, KKT với các cơ quan chức năng có thẩm quyền trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa liên thông” áp dụng tại các Ban Quản lý. Có như vậy, sẽ khắc phục được những chồng chéo, bất cập trong quản lý nhà nước như hiện nay, tạo môi trường thông thoáng, hấp dẫn để thu hút đầu tư.

Về công tác thanh tra, kiểm tra, kiến nghị duy trì Phòng Thanh tra đối với các Ban quản lý được xếp hạng I và bổ sung chức năng thanh tra của Ban quản lý KCN, KKT, KCX vào Luật Thanh tra. Trường hợp Ban Quản lý không có chức năng thanh tra thì phải cho phép có một biên chế Thanh tra viên để thực hiện việc kiểm tra, giám sát và xử lý theo quy định của Thông tư số 06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV. Có như vậy mới phát huy được vai trò quản lý nhà nước đối với Ban quản lý KCN, KKT, KCX.

Nhóm giải pháp về quy hoạch KCN, KKT, KCX

Công tác xây dựng quy hoạch cần được chú trọng nâng cao chất lượng để đảm bảo quy hoạch KCN, KKT có tính ổn định, lâu dài và thực tiễn cao, gắn với các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, quy hoạch đô thị, quy hoạch khu dân cư, quy hoạch nhà ở và các quy hoạch ngành liên quan. Theo đó, kiến nghị việc quy hoạch tổng thể phát triển KCN, KKT cần được rà soát định kỳ vào năm thứ tư của kế hoạch 05 năm để đảm bảo sự phù hợp với các quy hoạch phát triển có liên quan, hiệu quả sử dụng đất và khả năng thu hút đầu tư của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [2].

Về quy hoạch KCN, KKT, KCX, đề nghị rà soát lại, địa phương nào có điều kiện thì phát triển, còn ngược lại thì nên giảm. Không nên quy hoạch tràn lan theo hướng tỉnh nào cũng có KCN, KKT, KCX, không những dẫn đến không hiệu quả, lãng phí đất đai, nhân lực và vật lực, mà còn triệt tiêu lẫn nhau. Nên tập trung quy hoạch, phát triển KCN ở các trung tâm kinh tế trọng điểm vùng, còn các tỉnh, thành phố khác thì quy hoạch khu tiểu thủ công nghiệp để phát triển kinh tế và giải quyết việc làm cho địa phương. Đảm bảo diện tích KCN phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất từng thời kỳ; không bỏ trống đất đai, gây lãng phí; không phát triển KCN khi chưa đảm bảo tỷ lệ lấp đầy KCN theo quy định.

Nhóm giải pháp về huy động vốn cho phát triển KCN, KKT, KCX

Trong thời gian tới, cần tiếp tục tập trung đầu tư các KKT có tiềm năng, thuận lợi nhất; huy động tổng hợp các nguồn vốn (ODA, FDI, ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ) và nhiều hình thức đầu tư như (đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, PPP…) để đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu, quan trọng trong các KKT, tạo điều kiện đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển các KKT; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án động lực đã thu hút được và các dự án cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong các KKT, tạo tiền đề cho việc hình thành khu vực phát triển công nghiệp nòng cốt trong các KKT và thu hút các nhà đầu tư khác.

Đồng thời, xây dựng kế hoạch vận động xúc tiến đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; trong đó xác định cơ cấu đầu tư, dự án động lực phù hợp với tiềm năng, lợi thế của địa phương.

Đặc biệt, cần sửa đổi một số quy định vướng mắc chưa thuận lợi cho thu hút đầu tư, phát triển các KCN, KKT về ưu đãi thuế TNDN, chính sách tiền thuê đất đai, nghĩa vụ tài chính đối với doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN; yêu cầu về việc phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi quyết định chủ trương đầu tư hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư; quy trình liên thông trong việc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư và cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho nhà đầu tư nước ngoài; quy định cụ thể về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và những điều kiện đầu tư kinh doanh.

Để tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư KKT, nên xem xét bổ sung các dự án được hưởng mức ưu đãi thuế suất 10% trong 30 năm, miễn thuế TNDN 04 năm, giảm 50% trong 09 năm tiếp theo trong KKT gồm: dự án đầu tư vào ngành nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư; dự án đầu tư có quy mô 6.000 tỷ đồng giải ngân không quá 03 năm hoặc sử dụng trên 3.000 lao động; dự án đầu tư có quy mô 12.000 tỷ đồng giải ngân không quá 05 năm; dự án đầu tư vào hạ tầng kinh tế kỹ thuật (điện, nước…). Đây là những dự án quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển của KKT [2].

Đối với việc quản lý giá cho thuê đất, thuê lại đất KCN, KKT: Trên thực tế xảy ra tình trạng giá thuê lại đất không đồng đều giữa các KCN trên cùng một địa bàn, một số KCN mới xây dựng định giá thuê lại ban đầu thấp để thu hút đầu tư ban đầu, sau đó tăng dần giá; một số KCN khi đã gần lấp đầy diện tích thì định giá phần đất còn lại quá cao, làm đất để trống trong thời gian dài chưa thu hút được đầu tư. Để đảm bảo hiệu quả trong thu hút đầu tư, tránh tình trạng lãng phí đất xảy ra, cần xem xét ban hành quy định UBND cấp tỉnh có trách nhiệm kiểm tra yếu tố hình thành giá cho thuê, cho thuê lại đất đối với doanh nghiệp xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN, KKT theo đề nghị của Ban Quản lý KCN, KKT. Khi định giá thuê lại đất KCN, KKT, nhà đầu tư hạ tầng đảm bảo phù hợp với các yếu tố hình thành giá, hạch toán được các chi phí giảm do được ưu đãi, hỗ trợ để giảm giá thành [2].

Nhóm giải pháp về phát triển hạ tầng cơ sở KCN, KKT, KCX

- Nghiên cứu, pháp luật hóa mô hình KCN, đô thị, dịch vụ để phát triển đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, tạo môi trường sống và làm việc ổn định lâu dài cho người lao động và chuyên gia.

- Nghiên cứu, xây dựng mô hình Đặc khu kinh tế với cơ chế, chính sách vượt trội và có tính cạnh tranh quốc tế, trở thành đầu tàu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước tại một số địa phương có đủ điều kiện phát triển mô hình này.

- Nâng cao chất lượng xây dựng kết cấu hạ tầng KCN theo hướng xây dựng một cách đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật với các tiện nghi, tiện ích công cộng phục vụ cho KCN; gắn kết cấu hạ tầng trong hàng rào với ngoài hàng rào KCN. Đa dạng các nguồn vốn để đầu tư xây dựng nhà ở và các công trình tiện nghi, tiện ích phục vụ đời sống người lao động KCN. Huy động tổng hợp các nguồn vốn, trong đó phát huy tối đa các hình thức PPP để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KKT. Nghiên cứu xem xét nâng cao trách nhiệm của các địa phương trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KKT, giảm bớt phụ thuộc vào nguồn hỗ trợ từ NSTW.

- Nghiên cứu bổ sung các trường hợp dự án được huy động các nguồn vốn và phương thức để huy động vốn nhằm tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN.

- Xem xét quy định bổ sung trách nhiệm của doanh nghiệp KCN, KKT trong xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung, bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường [2].

- Bên cạnh vấn đề phát triển nhà ở cho người lao động, cần xem xét bổ sung quy định về phát triển công trình văn hóa, thể thao và phúc lợi công cộng cho người lao động trong KCN để đảm bảo sự phát triển KCN gắn với phát triển đồng bộ công trình nhà ở, phúc lợi cho người lao động KCN theo Quyết định 2164/QĐ-TTg ngày 11/11/2013 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2016-2020 và Quyết định số 1780/QĐ-TTg ngày 12/10/2011 phê duyệt Đề án xây dựng đời sống văn hóa công nhân ở các KCN đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 [2].

Có thể thấy, việc xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách thành lập, xây dựng và phát triển KCN, KKT, KCX tại Việt Nam trong thời gian qua đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng phát triển của các KCN, KKT, KCX, từ đó đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong hệ thống cơ chế, chính sách này và cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên được kỳ vọng sẽ tạo ra động lực phát triển KCN, KKT, KCX trong giai đoạn mới, đóng góp quan trọng hơn nữa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.

------------------------------------------

Tài liệu tham khảo

[1] Vụ Quản lý các KKT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bài giảng lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý KKT, KCN, tổ chức ngày 29/11/2016.

[2] Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, Nghị định số 164/2013/NĐ-CP và Nghị định số 114/2015/NĐ-CP quy định về KCN, KKT.

[3] ThS. Trần Duy Đông (2015) “Một số vấn đề về chính sách phát triển KCN, KCX, KKT theo Luật Đầu tư 2014 và định hướng chính sách đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035”.



Các tin khác:

Đăng nhập

Tên đăng nhập:
Mật khẩu:

Đổi mật khẩu

Mật khẩu cũ:
Mật khẩu mới:
Nhập lại mật khẩu mới: