Cơ chế, chính sách phát triển CNHT
Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để phát triển ngành CNHT. Theo đó, Chính phủ Việt Nam khuyến khích phát triển CNHT đối với các ngành: cơ khí chế tạo, điện tử tin học; sản xuất lắp ráp ô tô; dệt may; da giày; CNHT cho phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao. Các dự án đầu tư vào các lĩnh vực này được hưởng các ưu đãi như:
- Được miễn thuế nhập khẩu 05 năm đối với: thiết bị, máy móc; phương tiện vận tải chuyên dùng; linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, giá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm để lắp ráp đồng bộ với thiết bị vận tải chuyên dùng; nguyên liệu, vật tư trong nước chưa sản xuất được; cho các dự án thuộc danh mục lĩnh vực được ưu đãi đặc biệt.
- Được miễn thuế cho các vật tư, thiết bị nhập khẩu để sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm.
- Được giảm thuế nhập khẩu đối với: thiết bị, máy móc; phương tiện vận tải chuyên dùng; linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, giá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm để lắp ráp đồng bộ với thiết bị vận tải chuyên dùng; nguyên liệu, vật tư trong nước chưa sản xuất được cho các dự án thuộc danh mục lĩnh vực được ưu đãi.
- Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất cho các dự án sản xuất sản phẩm CNHT cho phát triển công nghiệp công nghệ cao.
Ngoài ra, các dự án sản xuất sản phẩm CNHT được hưởng những cơ chế ưu đãi đặc biệt. Chủ đầu tư xây dựng dự án theo các quy định hiện hành, trong đó đề xuất cụ thể các ưu đãi đặc biệt, gửi Hội đồng thẩm định dự án CNHT xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Thực trạng phát triển CNHT ở Việt Nam
Ngành công nghiệp hỗ trợ ở nước ta hiện nay chỉ mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chủ yếu sản xuất các linh kiện chi tiết đơn giản, giá trị gia tăng thấp và còn có sự chênh lệch về năng lực phụ trợ giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ nội địa của Việt Nam với các yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu. Hiện nay, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này chủ yếu là từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... Môi trường đầu tư trong lĩnh vực này còn hạn chế và các doanh nghiệp thực sự chưa tính toán được mức lợi nhuận so với chi phí đầu tư nên chưa mặn mà với hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Do đặc thù phát triển với quy định nội địa hoá của Chính phủ và dung lượng thị trường hạ nguồn rất lớn, đến nay, CNHT cung cấp cho ngành xe máy được coi là thành công nhất với việc hình thành một hệ thống các nhà cung ứng ngay trong nội địa. Trong quá trình hợp tác, đã có sự chuyển giao công nghệ từ các công ty lắp ráp nước ngoài đến các doanh nghiệp Việt Nam cung ứng linh kiện. Ngành cơ khí và nhựa cung cấp linh kiện cho xe máy, vì vậy, đã có những bước phát triển về trình độ kỹ thuật, quản lý và tay nghề lao động. Mặc dù vậy, nhiều linh kiện chi tiết quan trọng với giá trị cao vẫn do các nhà cung ứng FDI thực hiện, doanh nghiệp sản xuất CNHT cho các ngành khác như điện tử, ô tô còn rất yếu kém.
CNHT liên quan hầu hết tới các ngành công nghiệp chế tạo quan trọng như ôtô, xe máy, cơ khí, hóa dầu, điện, điện tử, chế tạo máy… Thực tế hiện nay cho thấy, không chỉ doanh nghiệp trong nước mà ngay cả các doanh nghiệp FDI cũng gặp phải khó khăn do khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp hỗ trợ Việt Nam còn rất hạn chế, nhất là các linh kiện, phụ kiện đòi hỏi tính chính xác cao.
Nhìn chung, CNHT ở Việt Nam hiện nay còn yếu, thiếu đồng bộ và chưa thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của ngành công nghiệp lắp ráp. Ngoại trừ một số rất ít doanh nghiệp đã tham gia được vào sản xuất phụ trợ cho các công ty lắp ráp, phần lớn các doanh nghiệp vẫn không thể đáp ứng được yêu cầu của các công ty này.
Thu hút FDI vào CNHT
Do sản xuất trong nước còn khá hạn chế, các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT chủ yếu là các doanh nghiệp FDI. Đến năm 2012, có 1.631 doanh nghiệp FDI đầu tư vào lĩnh vực CNHT với số vốn đăng ký lên tới trên 22,8 tỷ USD, chiếm 13,2% số dự án và 20,8% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp.
CNHT ngành điện - điện tử là lĩnh vực thu hút được nhiều FDI nhất trong các ngành CNHT tại Việt Nam với 445 dự án FDI, số vốn đăng ký lên tới trên 10 tỷ USD, chủ yếu là các dự án sản xuất linh kiện điện tử (311 dự án với số vốn đầu tư trên 8,2 tỷ USD).
Các doanh nghiệp FDI đầu tư sản xuất linh kiện điện - điện tử chủ yếu là các doanh nghiệp lớn (chiếm tới 35,7% tổng số doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực CNHT và khoảng 45% tổng số doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực này). Các doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực này chỉ sản xuất các loại linh kiện, cụm linh kiện phục vụ lắp ráp từ những loại linh kiện cơ bản và vật liệu điện tử nhập khẩu do những loại linh kiện và vật liệu này không được sản xuất tại Việt Nam.
Trước đây, các doanh nghiệp FDI chủ yếu đầu tư lắp ráp các sản phẩm linh kiện, cụm linh kiện điện tử với số lượng lớn như bảng mạch các loại, bo mạch điện tử, chíp điện tử, cuộn cảm điều hòa, tủ lạnh, các linh kiện cho điện thoại di động,... Một phần nhỏ những linh kiện này được cung ứng cho các doanh nghiệp trong nước, còn lại phần lớn là xuất khẩu. Trong những năm gần đây, các nhà sản xuất lắp ráp lớn như Canon, Samsung, Intel, Nokia… đã đầu tư sản xuất các loại sản phẩm điện tử tại Việt Nam thu hút một lượng lớn các doanh nghiệp CNHT ngành điện - điện tử đầu tư sản xuất cung ứng các loại linh kiện cần thiết cho sản xuất của những nhà lắp ráp này.
CNHT ngành cơ khí thu hút được 595 dự án đầu tư với số vốn khoảng 5,2 tỷ USD, chiếm trên 36,5% tổng số dự án và 23% số vốn đầu tư vào CNHT. Trong đó, các doanh nghiệp FDI chủ yếu đầu tư vào sản xuất các linh kiện cơ khí (với 468 doanh nghiệp và trên 4,4 tỷ USD vốn đầu tư) chủ yếu là các doanh nghiệp đầu tư sản xuất linh kiện cho ngành ô tô, xe máy, chỉ có 78 doanh nghiệp đầu tư sản xuất khuôn mẫu và 35 doanh nghiệp đầu tư sản xuất thiết bị, máy móc cơ khí.
CNHT ngành hóa chất: Ngành hóa chất là ngành cung ứng các loại vật liệu, linh kiện nhựa, cao su cho các ngành công nghiệp chế tạo, thông thường đây là lĩnh vực được ưu tiên nội địa hóa của các tập đoàn đa quốc gia. Hiện nay, Việt Nam chỉ thu hút được 225 doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào sản xuất các sản phẩm hóa chất phục vụ sản xuất với số vốn đầu tư vào khoảng 1,9 tỷ USD.
Thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này của Việt Nam là khá hạn chế, lượng doanh nghiệp cũng như khối lượng vốn thu hút còn thấp, chỉ chiếm 13,8% số lượng doanh nghiệp và 8,6% tổng vốn đầu tư vào lĩnh vực CNHT.
Trong lĩnh vực này, sản xuất linh kiện nhựa, cao su là lĩnh vực thu hút được nguồn vốn FDI đầu tư mạnh mẽ nhất với 134 dự án và trên 1,1 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 59,5% số dự án và 62,1% tổng số vốn đầu tư. Lĩnh vực sản xuất vật liệu và sản xuất khuôn mẫu cho ngành nhựa kém phát triển, không đáp ứng đủ nhu cầu cho lĩnh vực sản xuất linh kiện cũng như các ngành sản xuất hạ nguồn.
CNHT ngành dệt may: Dệt may là lĩnh vực sản xuất đã khá phát triển tại Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu lên tới trên 12 tỷ USD mỗi năm, tuy nhiên, CNHT cho ngành này lại chưa phát triển tương xứng. FDI vào lĩnh vực CNHT ngành dệt may còn khá hạn chế với 307 dự án đầu tư và trên 5,1 tỷ USD vốn đầu tư.
Lĩnh vực được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đầu tư là sản xuất sợi với 52 dự án và khoảng 3,5 tỷ USD vốn đầu tư. Các công đoạn dệt, nhuộm, hoàn tất cũng như sản xuất phụ liệu dệt may kém phát triển thể hiện ở việc thu hút vốn FDI hạn chế khiến cho sản xuất ngành dệt may Việt Nam phát triển thiếu sự liên kết cần thiết. Các sản phẩm phụ trợ sản xuất không cung ứng được trực tiếp cho ngành may trong nước do thiếu các khâu nhuộm, hoàn tất vải. Do đó, mặc dù Việt Nam xuất khẩu được sản phẩm sợi đi các nước song lại phải nhập khẩu các loại vải đã nhuộm, hoàn tất phục vụ ngành may trong nước.
CNHT ngành da giày: Cùng với dệt may, da giày là một trong những ngành sản xuất khá phát triển tại Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu lớn, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế. Lĩnh vực CNHT ngành da giày chủ yếu là sản xuất da và thuộc da, sản xuất các loại phụ liệu cũng như nguyên liệu, dụng cụ sản xuất.
FDI vào lĩnh vực này còn rất hạn chế. Đến năm 2012, lĩnh vực này mới chỉ thu hút được 59 dự án FDI với số vốn đầu tư vào khoảng 305,6 triệu USD trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp sản xuất da và thuộc da phục vụ sản xuất giày dép, cặp túi xuất khẩu, sản xuất phụ liệu và dụng cụ sản xuất da giày thu hút được rất ít dự án đầu tư. Do sản xuất trong nước còn hạn chế, ngành da giày phải nhập khẩu hầu hết các loại sản phẩm phụ trợ từ da đến phụ liệu, dụng cụ sản xuất từ nước ngoài khiến cho giá trị gia tăng của ngành không cao và phụ thuộc mạnh vào các nhà cung cấp nước ngoài.

Một số bất cập trong thu hút đầu tư vào ngành CNHT
Do dung lượng thị trường còn nhỏ bé, việc áp dụng chính sách khuyến khích ưu đãi trực tiếp cho doanh nghiệp CNHT khó thực hiện được vì vi phạm các cam kết của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, các doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư phát triển vào lĩnh vực được coi là các ngành thâm dụng công nghệ và vốn này.
Vai trò hỗ trợ trung gian của các tổ chức, các hiệp hội, cơ quan quản lý nhà nước chưa thể hiện rõ, kể cả ở khâu hoạch định chính sách kế hoạch đến thực thi. Các chương trình phát triển CNHT do một số tổ chức xúc tiến đã hình thành, nhưng chưa có chương trình nào thật sự hiệu quả. Doanh nghiệp, đối tượng trực tiếp của các hoạt động này vẫn chưa nhận được các hỗ trợ thích đáng cần thiết.
Quyết định 12/QĐ-TTg về phát triển CNHT đã được ban hành năm 2011, tuy nhiên các hỗ trợ ưu đãi cho doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT gần như không có gì mới so với cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngoại trừ Điều 14 quy định: Chủ đầu tư xây dựng dự án theo các quy định hiện hành, trong đó đề xuất cụ thể các ưu đãi đặc biệt, gửi Hội đồng thẩm định dự án CNHT xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Vấn đề thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp trong nhiều năm qua hầu như chỉ tập trung vào các tập đoàn lớn, tạo nhiều việc làm, tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp lớn. Đa số các tập đoàn lớn trong các ngành chế tạo là các doanh nghiệp lắp ráp, tạo ra giá trị gia tăng rất ít trong sản phẩm, không có tác động lan tỏa cho doanh nghiệp nội địa. Trong khi các doanh nghiệp sản xuất CNHT thường có quy mô nhỏ và vừa, có nhu cầu thuê diện tích sản xuất nhỏ gần như chưa được quan tâm khi thu hút đầu tư nước ngoài.
Các dự án sản xuất CNHT được Chính phủ Việt Nam ưu đãi và khuyến khích đầu tư vào Việt Nam thời gian qua như Intel, Foxconn… hầu hết là sản xuất linh phụ kiện phục vụ 100% cho xuất khẩu. Nguyên vật liệu, linh phụ kiện đầu vào của các dự án này hầu hết cũng 100% nhập khẩu. Các nhà sản xuất CNHT xuất khẩu loại này ít có động cơ nội địa hóa.
Đề xuất chính sách phát triển CNHT
Theo báo cáo của Bộ Công Thương tại Hội thảo tổng kết 25 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam tổ chức tháng 3/2013, với vai trò to lớn của CNHT đối với nền kinh tế, Chính phủ cần thành lập cơ quan đầu mối quản lý nhà nước về CNHT. Bên cạnh các công việc liên quan đến chính sách cho CNHT, một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan đầu mối là hàng năm nên ban hành “sách trắng” về CNHT; đồng thời, cần thể chế hóa việc khuyến khích phát triển CNHT bằng các văn bản mang tính pháp lý, bao gồm:
Chính sách ưu đãi doanh nghiệp sản xuất CNHT liên quan đến thủ tục đăng ký kinh doanh, ưu đãi giá thuê đất, thuế (không vi phạm các cam kết hội nhập, như thuế thu nhập doanh nghiệp, các chính sách thuế gián tiếp, giảm thuế cho doanh nghiệp sản xuất linh phụ kiện phục vụ thị trường nội địa, các hỗ trợ về thủ tục…), cũng như các trợ giúp gián tiếp thông qua các khoá đào tạo về nhân lực. Các chính sách trợ giúp gián tiếp cũng có thể liên quan đến các biện pháp tăng cường liên kết kinh doanh giữa doanh nghiệp các ngành khác nhau, các lĩnh vực khác nhau.
Chính sách ưu đãi phát triển hạ tầng cho CNHT: các KCN hỗ trợ, các cụm liên kết ngành liên quan đến CNHT, các vườn ươm doanh nghiệp cho CNHT cần được nhận ưu đãi để phát triển. Chính phủ cần đầu tư và dành kinh phí đào tạo nhân lực cho các ngành CNHT thông qua việc cải tiến các chương trình đào tạo của các trường cao đẳng, dạy nghề trong các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng các chương trình đào tạo tại chỗ hoặc kết hợp với doanh nghiệp sản xuất.
Thể chế hoá các quy định về cơ chế hợp đồng: quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong các ngành CNHT được dựa chủ yếu trên cơ chế hợp đồng chính thức và không chính thức. Như vậy, để tránh các rủi ro có thể xảy đến cho doanh nghiệp tham gia liên kết, cần phải chuẩn bị trước các quy định, chế tài liên quan đến việc đảm bảo thực hiện các hợp đồng này, nhất là các hợp đồng không chính thức. Điều này rất cần đến vai trò trung gian khách quan và chủ động của Chính phủ và các cơ quan hỗ trợ khác, được gọi chung là các nhà cung cấp dịch vụ.
Xây dựng các hệ thống chất lượng liên quan đến linh phụ kiện: đây là hệ thống tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam dành cho các bán thành phẩm, các chi tiết linh phụ kiện của các ngành CNHT. Nên xem xét đến các tiêu chuẩn quy định quốc tế cũng như các tiêu chuẩn sẵn có của các tập đoàn đa quốc gia đang có mặt trên thị trường Việt Nam trong mỗi lĩnh vực khi xây dựng hệ thống này. Trên cơ sở này, xây dựng cơ chế quản lý chất lượng sản xuất và giám sát các hoạt động sản xuất theo kiểu Việt Nam để nâng cao chất lượng sản phẩm trong từng ngành, như các bộ tiêu chuẩn 5S, JIT của Nhật Bản, hiện đang được một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện ở Việt Nam áp dụng.
Mô hình phát triển CNHT
Để phát triển CNHT, các quốc gia đi trước tập trung vào thu hút FDI và bằng quy định tỷ lệ nội địa hoá đối với các doanh nghiệp FDI. Từ hai chính sách này, các ngành công nghiệp trong nước đã được nhận chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp nước ngoài. Trong bối cảnh hiện nay, các chính sách liên quan đến yêu cầu nội địa hoá là hết sức nhạy cảm vì vi phạm các quy định tự do hoá thương mại. Vì thế, cần có một số công cụ phát triển CNHT sắc nét để thu hút và nhận chuyển giao từ các doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp nội địa.
KCN hỗ trợ: là khu vực tập trung các doanh nghiệp cung ứng, là một mô hình rất phát triển ở Nhật Bản. Hiện nay, ở Nhật Bản có khoảng 200 các KCN hỗ trợ. Các nhà đầu tư Nhật Bản cũng đã đầu tư vào các khu như vậy ở Malaysia, Thái Lan. Các KCN hỗ trợ khác biệt so với các KCN thông thường, ở việc các doanh nghiệp đầu tư vào đây đều sản xuất trong các lĩnh vực cung ứng cho các ngành chế tạo. Do các doanh nghiệp nước ngoài này đều có quy mô rất nhỏ, để khuyến khích họ đầu tư ra nước ngoài, hạ tầng tại các khu CNHT được cung cấp một cách đặc biệt, bao gồm cả nhà xưởng theo yêu cầu, cung cấp điện nước hoàn chỉnh trong công trình, hệ thống xử lý môi trường và các dịch vụ mềm khác, nhưng với diện tích tối thiểu để chi phí thấp nhất.
Cụm liên kết ngành: là mô hình đã thành công ở nhiều quốc gia khi phát triển CNHT. Mô hình các Cụm liên kết ngành nhằm góp phần gia tăng năng lực cung ứng nội địa.
Hệ thống vườn ươm doanh nghiệp cho CNHT: để đáp ứng nhu cầu về CNHT, thiết lập được hệ thống cung ứng cho các ngành, rất cần một biện pháp mạnh mẽ và có gốc rễ nền tảng về phát triển doanh nghiệp ngay từ những bước đi ban đầu. Mục tiêu cụ thể của các vườn ươm doanh nghiệp cho CNHT là xây dựng hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyên cung ứng cho các ngành công nghiệp chế tạo cơ bản. Hệ thống này trong giai đoạn đầu có thể tập trung sản xuất các linh kiện kim loại và linh kiện nhựa, sẽ đóng góp đáng kể vào năng lực sản xuất nội địa của quốc gia.
Định hướng thu hút FDI để phát triển CNHT
Các dự án sản xuất CNHT phục vụ nhu cầu nội địa: Các ngành CNHT tạo ra giá trị gia tăng và đòi hỏi công nghệ cao hơn các ngành công nghiệp lắp ráp. Mặc dù vậy, do hầu hết nguyên vật liệu và linh phụ kiện đầu vào đều nhập khẩu, rất nhiều dự án sản xuất sản phẩm công nghệ cao nhưng hoàn toàn không tạo ra giá trị gia tăng trong nội địa, khi mà toàn bộ máy móc, nguyên vật liệu, công nghệ sản xuất đều được nhập khẩu và sản phẩm đầu ra hoàn toàn dành cho xuất khẩu. Các dự án loại này thường nằm trong các khu chế xuất, do đó lợi ích thu được cho quốc gia chỉ là giải quyết việc làm cho người lao động. Vì vậy, đến năm 2020, cần phát triển CNHT với mục tiêu tập trung là nâng cao tỉ lệ nội địa hóa, thay thế nhập khẩu, cần khuyến khích các dự án đầu tư nước ngoài sản xuất CNHT dành cho nhu cầu nội địa, với tỉ trọng sử dụng đầu vào tại nội địa cao. Điều này sẽ có tác động lan tỏa đến các doanh nghiệp trong nước khi trở thành nhà cung ứng cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài này.
Các dự án sản xuất CNHT thuộc mạng lưới sản xuất của các tập đoàn lắp ráp hiện có ở Việt Nam: cần khuyến khích các doanh nghiệp cung ứng linh kiện phụ tùng thuộc mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia đã có mặt ở Việt Nam. Việc kêu gọi được các doanh nghiệp này sẽ làm tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm dần các công đoạn phải nhập khẩu. Đây chính là khách hàng cho doanh nghiệp nội địa sản xuất CNHT và giúp tạo ra mạng lưới sản xuất của tập đoàn đa quốc gia ngay trong nội địa. Tuy nhiên, các doanh nghiệp FDI loại này hầu hết có quy mô nhỏ và vừa nên rất cần có các chính sách khuyến khích và ưu đãi trong đầu tư.
Các dự án sản xuất vật liệu phục vụ công nghiệp chế tạo: Hiện nay, Việt Nam khó thu hút FDI vào các ngành sản xuất vật liệu: thép chế tạo, hạt nhựa... phục vụ công nghiệp chế tạo. Lý do chính là nhu cầu trong nước của các ngành này, chính là các doanh nghiệp CNHT còn quá ít nên chưa đủ sản lượng cần thiết cho sản xuất ngay trong nước. Nếu để xuất khẩu thì Việt Nam chưa đủ hấp dẫn để các nhà đầu tư nước ngoài chuyển sản xuất hoặc đầu tư mới ở Việt Nam. Do đó, Chính phủ nên có chính sách khuyến khích thu hút đầu tư vào lĩnh vực này.
Các tập đoàn sản xuất linh kiện xuất khẩu: Việc kêu gọi được các tập đoàn này vào sản xuất tại Việt Nam sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp lớp dưới có thêm thị trường. Tuy nhiên, nếu như chưa có hệ thống doanh nghiệp CNHT trong nội địa đủ mạnh, thu hút các doanh nghiệp này quá sớm mà không kèm các cam kết nội địa hóa, sẽ chỉ là mô hình chế xuất, vì Việt Nam không có cơ hội cung ứng cho các tập đoàn này.
PV (tổng hợp)